Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

Chia sẻ cùng bạn về triết lý quản trị của các doanh nhân kiệt xuất châu Á

Tôn giáo hướng dẫn con người thoát khỏi đau khổ, hướng đến hạnh phúc, thanh thản. Công việc của doanh nghiệp cũng thiêng liêng như thế, xét về khía cạnh mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao chất lượng cuộc sống, xóa bỏ đói nghèo, tạo ra sự thịnh vượng. Đó là sứ mệnh của doanh nghiệp.
Triết lý quản trị của các doanh nhân kiệt xuất châu Á có những điểm giống nhau: Lấy con người làm trọng và cái “tâm” làm chủ đạo.
Sự chân thành là chìa khoá
Kazuo Inamori - Chủ tịch Kyocera và DDI, Nhật:
Sự chân thành, tin tưởng, tôn trọng, lòng dũng cảm và sự lạc quan là chìa khóa để dẫn dắt đội ngũ vượt qua mọi trở ngại, tiến dần đến một viễn cảnh đã khá rõ ràng, không đầu hàng cho tới khi thật hài lòng với kết quả đạt được. Đó là niềm khát khao thành công, nó được “kiến tạo từ bên trong”.
Quản lý hiệu quả hơn khi không ràng buộc
Jagdish Parikh - Chủ tịch Tập đoàn Lemnir, Ấn Độ:
Bạn có thể quan hệ và quản lý một cách hiệu quả hơn khi không bị ràng buộc, có mối quan hệ sâu sắc, mở rộng lòng mình đón nhiều cách nghĩ, chủ động phản ứng thích hợp và sáng tạo được những phản ứng khác nhau. Đó là khả năng quản lý bằng mối quan hệ tách biệt. (Jagdish Parikh – Tập đoàn Lemnir, Ấn Độ)
Công việc của doanh nghiệp cũng thiêng liêng như tôn giáo
Konosuke Matsushita - Nhà sáng lập Matsushita, Nhật:
Tôn giáo hướng dẫn con người thoát khỏi đau khổ, hướng đến hạnh phúc, thanh thản. Công việc của doanh nghiệp cũng thiêng liêng như thế, xét về khía cạnh mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao chất lượng cuộc sống, xóa bỏ đói nghèo, tạo ra sự thịnh vượng. Đó là sứ mệnh của doanh nghiệp.
Cần phân biệt cái nhất thời với cái bền vững
Jaime Augusto Zobel de Ayala - Chủ tịch tập đoàn Ayala, Philippines:
Phân biệt được cái nhất thời và cái bền vững rất cần thiết trong kỷ luật quản lý. Một công ty không phải là một hoang đảo, mà phải có trách nhiệm với nhân viên, với công chúng và với xã hội. Do đó phải thực hiện hai nguyên lý quan trọng: bồi đắp tính liêm chính trong công ty và tạo dựng uy tín ngoài xã hội.
Nghĩ khác để thay đổi các nguyên tắc quản trị
Guy Kawasaki - Chủ tịch Garage.com, Mỹ:
Nghĩ khác nhằm thay đổi các nguyên tắc để quản trị là một nhà cải cách. Khi mới bắt đầu tiến hành cải cách, thường có các rào cản. Hãy xác định ai là người gây ra rào cản, tiếp cận họ và vận dụng những gợi ý của họ. Hãy sáng suốt về những gì mình chia sẻ và cẩn thận về những khía cạnh được chia sẻ. Một cuộc cải cách thành công phải thường xuyên thu thập và nghiên cứu các thông tin liên quan, chia sẻ thông tin với đồng nghiệp, thậm chí với đối thủ cạnh tranh để mở rộng lĩnh vực và khối lượng thông tin.
Lợi nhuận và thua lỗ được đo bằng cảm giác hạnh phúc và sự thanh thản
Chung Po-Yang - Nhà sáng lập tập đoàn DHL Hồng Kông:
Cuộc đời con người giống như một công ty kinh doanh. Nhưng công ty có thể tuyên bố phá sản và xây dựng lại từ đầu, còn chúng ta không thể sống hai lần. Chúng ta chỉ có thể tái thiết lập tinh thần và tình cảm. “Lợi nhuận và thua lỗ” được đo bằng cảm giác hạnh phúc và sự thanh thản. Chúng ta phải duy trì liên tục “chất lượng dịch vụ” của mình bằng một chiến lược với quá trình bốn bước: đánh giá toàn bộ cảm xúc tích cực và tiêu cực; rũ bỏ những cảm giác tiêu cực; xây dựng một bản kế hoạch chi tiết cho cuộc sống có mục đích; kiểm soát và đảm bảo dịch vụ chất lượng cao của bản thân

Chia sẻ với bạn về 10 kỹ năng xã hội giúp mở cửa thành công

Biết đánh giá thời cơ, nắm được cốt lõi vấn đề… tập trung ở yếu tố lãnh đạo. Đây cũng là điều mà nhiều công ty tuyển dụng tìm kiếm ở các sinh viên ra trường. Tích cực tham gia họat động trong môi trường tập thể là cơ hội mở ra để bạn tìm kiếm và khai thác khả năng lãnh đạo trong bản thân mình.
Điểm số cao vút chưa hẳn đã đưa bạn đến với thành công mà cần sự cân bằng giữa kiến thức và kỹ năng xã hội.
Hãy đọc và so sánh xem bạn đã đạt được bao nhiêu trong số những kỹ năng dưới đây:
Nuôi dưỡng ước mơ
“Hãy theo đuổi đam mê, thành công sẽ đuổi theo bạn.” Giữ vững tốc độ là điều quan trọng để đạt được mục tiêu.
Thầy cô và bố mẹ không thể luôn đi bên cạnh để giám sát, nhắc nhở bạn vậy nên đừng bao giờ quên đi ước mơ của mình.
Tính kỷ luật
Phương tiện truyền thông xã hội đang ngày một phổ biến và lan rộng, tính kỷ luật có vẻ như bắt đầu khó kiểm soát. Tuy nhiên, chỉ bằng cách tuân theo nếp sống kỷ luật, bạn mới có thể tập trung thực hiện mục tiêu đề ra của mình.
Chính tính nghiêm túc, kỷ luật cao của người dân Nhật Bản đã tạo nên đặc trưng riêng của đất nước mặt trời mọc này. Người Nhật đã bắt tay vào công việc là nghiêm túc đi kèm với cẩn thận và trách nhiệm.
Trong mắt người khác đôi khi tính cẩn thận đến từng chi tiết đó nghe có vẻ hơi ngớ ngẩn, thừa thãi. Nhưng chính từ việc chu đáo trong từng tiểu tiết mới có thể làm tốt những việc lớn khác.
Sinh viên ngay từ lúc ngồi trên giảng đường cũng nên rèn luyện tính kỷ luật. Hãy bắt đầu từ việc đơn giản nhất như đi học đúng giờ, thay vì trùm chăn ngủ nướng thêm 15 phút.
Siêng năng
Đôi lúc may mắn đi bên cạnh thành công, nhưng thành công chưa bao giờ là phép màu bởi nó được xây từ những nỗ lực, cố gắng ngày qua ngày.
Đừng mong chờ vào những “phím tắt” trong cuộc sống mà chính quá trình tích lũy chăm chỉ sẽ đưa bạn đi đến mục tiêu.
Sống chan hòa
Có biết bao người bạn sẽ gặp trong hành trình cuộc đời và bạn cần đến họ để hỗ trợ, giúp sức đi tiếp đến thành công. Muốn ai đó giúp mình thì trước tiên hãy chiếm được thiện cảm của họ.
Các câu lạc bộ hay họat động ngoại khóa trong trường sẽ đưa đến cơ hội để bạn sống trong môi trường tập thể và học cách xây dựng mối quan hệ xã hội từ đó.
Khả năng lãnh đạo
Biết đánh giá thời cơ, nắm được cốt lõi vấn đề… tập trung ở yếu tố lãnh đạo. Đây cũng là điều mà nhiều công ty tuyển dụng tìm kiếm ở các sinh viên ra trường.
Tích cực tham gia họat động trong môi trường tập thể là cơ hội mở ra để bạn tìm kiếm và khai thác khả năng lãnh đạo trong bản thân mình.
Đứng vững sau thất bại
Ông cha ta có câu, “Thất bại là mẹ thành công”. Thực tiễn cho thấy không ai có thể phủ nhận được điều đó.
Người thành công không phải là người đi trên con đường êm đềm, phẳng lặng mà đó phải là người biết đừng vững sau thất bại. Đời sống tự nhiên cũng ẩn chứa bài học này, một cây xanh sau cơn bão hoặc kiên cường chống chọi hoặc gãy cành, bật tung gốc rễ.
Cư xử đúng mực
Đừng tìm đường tắt để đi đến thành công nhưng hãy tin rằng cuộc sống rất công bằng, có cho đi và nhận lại. Nếu bạn đối xử tốt với mọi người xung quanh thì không vì lý do gì họ lại không yêu mến bạn.
Cách cư xử đúng mực, phù hợp trong những môi trường khác nhau là điều quan trọng để bạn giữ được hình ảnh tốt đẹp trong mắt người khác. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong đoạn định hình nhân cách.
Có trách nhiệm
Người thành công thường mang trên vai những trọng trách nặng nề. Nếu bạn là một sinh viên thiếu ý thức, vô trách nhiệm thì đừng hy vọng khi ra trường bạn có thể tiến xa như bạn bè đồng trang lứa.
Tinh thần trách nhiệm này cha mẹ có thể dạy cho trẻ từ khi con nhỏ bằng việc phân công cho trẻ các nhiệm vụ nhẹ nhàng. Từ đó chúng sẽ ý thức được giá trị của trách nhiệm.
Biết tha thứ
Người khôn khéo sẽ hiểu ác cảm, hận thù không bao giờ là cách tốt để điều chỉnh quan hệ xã hội hay thái độ. Chính cái nhìn tiêu cực đó sẽ tước đi những cơ hội khác mà bạn không bao giờ ngờ tới.
Hận thù không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương yêu mới dập tắt được hận thù, quy luật từ ngàn năm vẫn vậy.
Kiên nhẫn
Điều tốt đẹp sẽ đến với ai biết chờ đợi. Đó là lý do tại sao kiên nhẫn là một đức tính quan trọng.
Chờ đợi không phải theo cách là “ôm cây đợi thỏ” mà là biết chờ thời cơ, hiểu rõ tình thế, đặt ra mục tiêu phù hợp với khả năng của mình. Kiên nhẫn để không bốc đồng, nóng vội và đưa đến lựa chọn sai lầm.

Cùng bạn khám phá 5 chiến lược đơn giản bảo vệ danh mục đầu tư

Bằng việc mua thêm các tài sản khác như trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ hoặc bất động sản tương ứng với một nhóm cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ giảm thiểu được rủi ro hệ thống. Phương pháp này dựa trên phản ứng khác nhau của tài sản so với cổ phiếu, khi thị trường thay đổi sẽ có tài sản tăng, tài sản giảm giá trị và chúng sẽ bù trừ cho nhau.
Rủi ro là yếu tố không thể tránh trong quá trình đầu tư. Tuy nhiên, nhà đầu tư có thể tự bảo vệ danh muc của mình dựa trên 5 cách phổ biến dưới đây.
1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Một trong những yếu tố nền tảng của Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (MTP) là đa dạng hóa. Trong thị trường suy thoái, những người tin vào lý thuyết MTP cho rằng danh mục đầu tư đa dạng sẽ hiệu quả hơn chỉ tập trung vào một loại tài sản nào đó.
Các nhà đầu tư thường đầu tư sâu và đa dạng hóa danh mục bằng việc phân tán nguồn vốn của họ vào nhiều hơn một loại tài sản, do đó có thể giảm rủi ro phi hệ thống.
Rủi ro phi hệ thống là điều nhà đầu tư có thể loại bỏ được nếu nắm giữ một số loại chứng khoán đủ lớn. Loại rủi ro này là kết quả của những biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát được chỉ ảnh hưởng đến một công ty hoặc một ngành công nghiệp nào đó.
Các yếu tố này có thể là những biến động về lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính sách điều tiết của chính phủ.
2. Đầu tư vào các tài sản không tương ứng
Theo một số chuyên gia tài chính, một danh mục đầu tư chứng khoán bao gồm 12, 18 hoặc 30 mã cổ phiếu có thể loại bỏ gần như hoàn toàn rủi ro phi hệ thống. Tuy nhiên, yếu tố rủi ro hệ thống vẫn còn tồn tại và không thể loại bỏ bằng cách 1.
Bằng việc mua thêm các tài sản khác như trái phiếu, hàng hóa, tiền tệ hoặc bất động sản tương ứng với một nhóm cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ giảm thiểu được rủi ro hệ thống. Phương pháp này dựa trên phản ứng khác nhau của tài sản so với cổ phiếu, khi thị trường thay đổi sẽ có tài sản tăng, tài sản giảm giá trị và chúng sẽ bù trừ cho nhau.
3. Sử dụng các chiến lược liên quan đến quyền chọn hoặc mua LEAPS
Khi chỉ số S&P 500 giảm điềm vào năm 1926 hoặc 2009, hầu hết các nhà đầu tư sẽ bảo toàn lợi nhuận bằng cách bán ra tài sản của họ trước khi giá giảm quá sâu. Đôi khi đây là sự lựa chọn khôn ngoan hoặc đó chỉ là thời gian tạm nghỉ trước khi tăng giá của cổ phiếu.
Trong trường hợp nhà đầu tư không muốn bán nhưng vẫn muốn đảm bảo lợi nhuận, họ có thể tìm đến hợp đồng quyền chọn (Options).
Cụ thể, khi dự đoán giá cổ phiếu sẽ giảm trong ngắn hạn, hợp đồng quyền chọn bán (Put Options) sẽ là lựa chọn hợp lý. Hợp đồng quyền chọn bán cho phép người bán bán cổ phiếu với mức giá xác định trước tại một thời điểm trong tương lai.
Ví dụ, nhà đầu tư sở hữu 100 cổ phiếu của công ty A, nó đã tăng đến 80% giá trị chỉ trong 1 năm và đang giao dịch ở mức 100 USD/cổ phiếu. Anh ta tin vào tương lai của cổ phiếu này nhưng do nó đã tăng quá nhanh nên có thể sẽ giảm giá trong thời gian tới.
Để bảo vệ lợi nhuận của mình, nhà đầu tư này sẽ mua quyền chọn bán cổ phiếu của mình trong 6 tháng nữa với mức giá 105 USD/cổ phiếu, phí quyền chọn là 6 USD/cổ phiếu. Tại thời điểm thực hiện hợp đồng, anh ta sẽ bán cổ phiếu, thu được một khoản lợi nhuận bù đắp cho thiệt hại do cổ phiếu mất giá.
Hợp đồng quyền chọn thường có hiệu lực trong vòng một năm hoặc ít hơn. Nhà đầu tư tìm kiếm sự bảo vệ trong dài hạn có thể mua cổ phiếu thuộc nhóm LEAPS (long-term equity anticipation securities), có thời gian giao dịch lên đến 3 năm.
4. Cắt lỗ
Cắt lỗ nhằm bảo vệ nhà đầu tư khi giá cổ phiếu giảm. Cổ phiếu sẽ được bán ở một mức giá được cố định trước (stop loss). Ví dụ, nhà đầu tư mua cổ phiếu của công ty A với mức giá 10 USD/cổ phiếu với điểm dừng 8 USD. Cổ phiếu của anh ta sẽ tự động bán nếu giá giảm xuống 8 USD.
Ngoài lệnh dừng stop loss, nhà đầu tư có thể sử dụng trailing stop. Đó là kỹ năng để nhà đầu tư tự bảo vệ khi một giao dịch đã có lợi nhuận nhưng vẫn muốn gia tăng thêm. 

Trở lại ví dụ trên, nếu đặt trailing stop là 10% thì điểm dừng của nhà đầu tư là 9 USD. Khi giá cổ phiếu A tăng lên 12 USD, điểm dừng sẽ là 10,8 USD.
Trong trường hợp giá bán chỉ còn 10,5 USD/cổ phiếu, với stop loss (9 USD) nhà đầu tư vẫn nắm giữ cổ phiếu hoặc bán ở mức 10,8 USD nếu là trailing loss. Lệnh cắt lỗ bảo vệ nhà đầu tư tốt trong trường hợp thị trường thay đổi nhanh chóng.
Nhà đầu tư cần có chiến lược sử dụng lệnh hợp lý để thành công với danh mục của mình.
5. Cổ tức
Đầu tư vào cổ phiếu trả cổ tức là cách ít được biết đến để bảo vệ danh mục đầu tư. Cổ tức chiếm một phần đáng kể trong tổng lợi nhuận từ cổ phiếu.
Trong một số trường hợp, nó có thể đại diện cho tổng lợi nhuận. Sở hữu cổ phiếu của một công ty chi trả cổ tức ổn định là một phương pháp đã được chứng minh là có thể cung cấp lợi nhuận trên mức trung bình.
Khi thị trường suy giảm, cổ tức sẽ là tấm đệm đỡ cho các nhà đầu tư không thích rủi ro.
Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy rằng các công ty chi trả cổ tức thường có xu hướng tăng trưởng lợi nhuận nhanh hơn công ty khác. Tăng trưởng nhanh đồng nghĩa với việc giá cổ phiếu cao hơn, tạo ra lợi nhuận cho nhà đầu tư lớn hơn.
Thêm nữa, cổ tức còn là một hàng rào tốt để chống lạm phát. Bằng việc đầu tư vào nhóm cổ phiếu blue chip vừa trả cổ tức, vừa quyền định giá, danh mục đầu tư đã được bảo vệ với thu nhập cố định, tốt hơn trái phiếu chính phủ.
Mọi chuyện còn tốt hơn nhiều nếu nhà đầu tư có thể mua cổ phiếu của "quý tộc cổ tức", những công ty tăng cổ tức trong 25 năm liên tiếp.

Tìm hiểu vấn đề: Cứ để cho họ khóc!

 Nghiên cứu của tôi nói ra điều ngược lại. Mọi người xem nam giới khóc ở nơi làm việc là người nhiều tình cảm, nặng lòng trắc ẩn. Còn trong phụ nữ với nhau, người này nhìn người kia khóc ở nơi làm việc thì thường xem đó là một thất bại cá nhân hoặc tinh thần có điều bất ổn. Nam giới thấy phụ nữ khóc ở nơi làm việc thì không nghĩ nặng nề như vậy.
Sau một thời gian nghiên cứu về cảm xúc và các hành vi liên quan ở nơi làm việc cũng như sự khác nhau giữa phụ nữ và nam giới khi gặp căng thẳng, bà đã tổng kết các điều thú vị này trong quyển sách nói trên, từ đó cho thấy một góc nhìn lạ trong lĩnh vực quản lý nhân sự.
*Trước tiên, chúng ta thử nhìn nhận khóc ở nơi làm việc liệu có nên?
- Nước mắt giống như đèn báo hiệu của bộ máy cơ thể, phát ra tín hiệu cho thấy có điều gì đó không ổn. Nước mắt nói lên sự thất vọng, giận dữ, buồn phiền, kiệt sức. Đó không phải là một dấu hiệu yếu đuối, mà là nút giải tỏa cảm xúc mạnh nhất của chúng ta.
Theo bà, nhìn nhận của chúng ta về hiện tượng khóc ở nơi làm việc đã có gì thay đổi?
Nó đang tiến hóa. Không còn sự phân biệt giữa đời sống tại nơi làm việc và đời sống ở nhà riêng. Chúng ta làm việc trong xe, ở quán cà phê, ở phi trường, trong khi chờ tính tiền ở siêu thị. Ở nơi làm việc, chúng ta nhận cuộc gọi và lời nhắn từ cha mẹ, con cái, đối tác, còn ở nhà thì nhận cuộc gọi và email từ đồng nghiệp và cấp trên. Điều này luôn tạo ra các cảm xúc và làm thay đổi cách chúng ta nhìn nhận về cảm xúc nơi làm việc.
*Tỷ lệ phụ nữ và nam giới khóc ở nơi làm việc có giống nhau?
- Trong nghiên cứu của chúng tôi, có tới 40% phụ nữ nói là họ từng khóc ở nơi làm việc trong năm qua và chỉ có 9% nam giới gặp phải tình trạng tương tự. Điều này cũng khớp với nghiên cứu về mặt học thuật, cụ thể là trung bình, phụ nữ thường khóc nhiều hơn bốn lần so với nam giới trong mọi hoàn cảnh.
* Điều đó có phải do khác biệt về mặt sinh lý học không?
- Chắc chắn rồi! Khi bị căng thẳng, nam giới sản sinh ra testosterone và cortisol. Tuyến nước mắt của họ rộng hơn, do vậy khi khóc, mắt của họ bị tràn và nhòa bởi nước mắt. Còn phụ nữ sản sinh prolactin, loại hormone kích thích nước mắt nhiều hơn nam giới những sáu lần và khi gặp căng thẳng sẽ sinh ra oxytocin, loại hormone “chăm sóc và che chở”. Mặt khác phụ nữ có tuyến nước mắt nhỏ, do vậy nước mắt nhỏ thành giọt. Kết quả là tính theo bình quân, phụ nữ dễ khóc hơn nam giới.
* Khóc ở nơi làm việc có hủy hoại hình ảnh của nam giới nặng nề hơn so với nữ giới?
- Nghiên cứu của tôi nói ra điều ngược lại. Mọi người xem nam giới khóc ở nơi làm việc là người nhiều tình cảm, nặng lòng trắc ẩn. Còn trong phụ nữ với nhau, người này nhìn người kia khóc ở nơi làm việc thì thường xem đó là một thất bại cá nhân hoặc tinh thần có điều bất ổn. Nam giới thấy phụ nữ khóc ở nơi làm việc thì không nghĩ nặng nề như vậy.
* Theo bà, đâu là nguyên nhân chung gây ra tình trạng rơi nước mắt tại nơi làm việc?
- Với phụ nữ, nó thường liên quan đến công việc, ví dụ cảm thấy mình bị đánh giá thấp, bị thất vọng hoặc choáng ngợp. Với nam giới, nguyên nhân thường là một tình huống có cảm xúc bắt nguồn từ ngoài nơi làm việc.
* Bà sẽ làm gì nếu bà sắp khóc ở nơi làm việc?
- Nước mắt hầu như không thể ngăn được khi ở thời điểm phải khóc. Đôi khi, bạn có thể cắn môi hoặc hướng suy nghĩ mình qua hướng khác. Tuy nhiên, hãy cố gắng hiểu lý do gây ra bằng cách đặt câu hỏi vì sao mình giận dữ, vì sao mình bị sốc, vì sao mình bị choáng ngợp?
* Bà có thể cho lời khuyên về điều mà cấp quản lý nên và không nên làm khi bắt gặp nhân viên khóc?
- Hãy đặt sẵn một hộp khăn giấy! Nếu bạn đang đánh giá hiệu quả làm việc kém cỏi của nhân viên và thấy họ bắt đầu khóc, hãy đưa khăn giấy cho họ và nói: “Nào, hãy bình tĩnh suy nghĩ lại đã! Nếu bạn thấy ổn, chúng ta sẽ cùng làm việc, còn không thì ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục”. Nhưng nhớ là bạn cần phải quay lại đúng với vấn đề đang dở dang này.
Hóa ra không phải chỉ có công việc, mà cả những bộc lộ cảm xúc, như chuyện khóc ở nơi làm việc, cũng vẫn thuộc phạm vi mà nhà quản trị doanh nghiệp cần biết đến và biết có cách hành xử đúng.

Có thể bạn nên đọc qua bài học từ Buffett: Hãy nghi ngờ bản thân

Nguyên tắc này được ông Dalio gọi là “sự bất đồng có suy nghĩ”. Ông cho rằng nguyên tắc đó vào lúc này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Vì các thị trường đều đang lên các mức cao kỷ lục. Khi giá cả liên tục tăng cao, khó tránh được việc người ta trở nên tự mãn và chủ quan. “Khi nghĩ mình đúng, bộ não của bạn sẽ không muốn học hỏi. Càng nghĩ rằng bạn biết nhiều, bộ não sẽ càng khép lại, càng không muốn tiếp thu ý tưởng mới”, ông nói.
Không có thông tin gì to tát tại đại hội cổ đông của Berkshire Hathaway diễn ra vào ngày 4/5, nhưng có một bài học lớn dành cho các nhà đầu tư: Có lẽ điều quan trọng nhất bạn có thể làm khi các khoản đầu tư của bạn đang “xuôi chèo mát mái” là lắng nghe ai đó nói rằng bạn đã sai.
Để thêm gia vị cho đại hội cổ đông năm nay, nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffett, Chủ tịch Tập đoàn Berkshire Hathaway, đã mời một người đã đặt cược cổ phiếu của Berkshire sẽ đi xuống để tham gia nhóm các nhà phân tích đặt câu hỏi chất vấn cho Buffett và Phó Chủ tịch Charles Munger. Người được mời là chuyên gia bán khống Doug Kass, 64 tuổi, đến từ quỹ đầu cơ Seabreeze Partners Management. Năm 2008, Kass đã nổi tiếng khi ông viết một bài báo liệt kê cả 11 lý do vì sao nên bán khống cổ phiếu Berkshire.
Theo khảo sát do Viện Quan hệ Nhà đầu tư Quốc gia thực hiện vào năm 2011, có tới 80% công ty đưa ra giới hạn về số người có thể được đặt câu hỏi trong cuộc họp báo cáo kết quả kinh doanh. Gần 25% công ty chỉ nhận câu hỏi đặt ra từ một nhóm người họ đã đồng ý trước đó. Chỉ 11% cho phép các nhà đầu tư cá nhân chất vấn. Và chỉ 12% cho phép bất cứ ai cũng được đặt câu hỏi. Một phát hiện đáng chú ý là 76% công ty đã chuẩn bị sẵn câu trả lời theo kịch bản cho những câu hỏi họ dự kiến sẽ bị hoặc được hỏi.
Những điều này cho thấy sự đặc biệt trong cách nghĩ của Buffett. Đó là một trong những lý do làm nên thành công của ông. “Buffett rất tự tin, ông không sợ một thách thức nào. Nói đúng hơn là ông ấy rất hứng thú mỗi khi xuất hiện thách thức mới”, Kass nhận xét.
Buffett từng nói về nhà khoa học Charles Darwin, cha đẻ của học thuyết tiến hóa, rằng: “Mỗi khi gặp một ý tưởng mâu thuẫn với kết luận ông đã rút ra, Darwin liền viết phát hiện mới đó ra trong vòng 30 phút. Nếu không, bộ não của ông sẽ tự động đưa ra các lý lẽ bài xích thông tin phản bác này, giống như cơ thể tự động đào thải những vật lạ được cấy ghép vào mình”. Buffett nói thêm: “Tâm lý tự nhiên của con người là luôn bám giữ lấy niềm tin của mình, nhất là khi niềm tin đó đã được củng cố, chứng minh bởi những trải nghiệm”.
Đó là lý do Buffett phải luôn tìm người đưa ra ý kiến trái chiều với ông.
Một nhà đầu tư gạo cội khác trong giới tài chính cũng rất xem trọng nguyên tắc “cần thách thức quan điểm đầu tư của bản thân”. Đó là Ray Dalio, nhà sáng lập Bridgewater Associates, quỹ đầu cơ lớn nhất thế giới.
“Khi cả 2 bên đều bất đồng, đó là khi quá trình học hỏi và tiến lên phía trước bắt đầu diễn ra. Điều quan trọng nhất một nhà đầu tư có thể làm để trở nên hiệu quả hơn là tìm một người mình kính trọng, người có quan điểm hoàn toàn trái ngược với mình và có tinh thần trao đổi, tranh luận cởi mở”, ông nói thêm.
Nguyên tắc này được ông Dalio gọi là “sự bất đồng có suy nghĩ”. Ông cho rằng nguyên tắc đó vào lúc này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Vì các thị trường đều đang lên các mức cao kỷ lục. Khi giá cả liên tục tăng cao, khó tránh được việc người ta trở nên tự mãn và chủ quan. “Khi nghĩ mình đúng, bộ não của bạn sẽ không muốn học hỏi. Càng nghĩ rằng bạn biết nhiều, bộ não sẽ càng khép lại, càng không muốn tiếp thu ý tưởng mới”, ông nói.
Chỉ khi nào chủ động tìm kiếm “sự bất đồng có suy nghĩ”, nhà đầu tư mới có thể phản biện những niềm tin được tạo ra bởi một thị trường giá lên. Theo ông, các nhà đầu tư có thể nâng cao được xác suất đúng của họ thêm 30-40%, đơn giản chỉ bằng việc thảo luận một cách cởi mở với những người bất đồng ý kiến. Hiểu được các lý lẽ vì sao bất đồng sẽ giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định chính xác hơn. “Có một thực tế: nhiều nhà đầu tư mắc phải sai lầm là cứ nhìn vào giá mà không nhận ra giá chẳng có ý nghĩa gì cả”, ông nói.
Một cách để áp dụng nguyên tắc “bất đồng có suy nghĩ” vào quy trình ra quyết định, theo bà Mariko Gordon, Tổng Giám đốc Daruma Capital Management tại New York, là có thể giả vờ như mình là một người hoàn toàn khác. “Hãy tự hỏi mình: nếu tôi là nhà bán khống thông minh nhất thế giới, khoản đầu tư nào tôi sẽ tìm đến? Nếu tôi là người chỉ muốn mua các cổ phiếu tăng giá nhanh, vậy có cổ phiếu nào như thế cho tôi? Bằng cách đó, bạn có thể buộc mình phải nhìn vấn đề ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau”, bà nói.
Mike Ervolini, Tổng Giám đốc hãng tư vấn Cabot Research, lại đo lường bao lâu thì một khoản đầu tư tốt không còn hiệu quả nữa. Công ty ông nhận thấy nhà đầu tư có xu hướng tiếp tục nắm giữ một cổ phiếu đang chiến thắng trên thị trường, thậm chí sau khi phong độ của nó bắt đầu đi xuống.
Ông cho rằng cần phải nghiên cứu lịch sử đầu tư của chính mình để biết một khoản đầu tư trung bình sẽ tạo ra kết quả vượt trội trong bao lâu. Qua khoảng thời gian này là dấu hiệu cần phải xem lại khoản đầu tư đó.
Phải sẵn sàng chấp nhận những lời phản bác, đặt dấu hỏi ngay cả khi mình có niềm tin mạnh nhất. Khi thị trường giá lên chấm dứt và mọi thứ bắt đầu đi xuống, bạn sẽ tạ ơn trời là mình đã làm điều đó. Hãy nhìn Warren Buffett: ông luôn tìm người bảo rằng ông đã sai

Chia sẻ cùng bạn về (Infographic) Vọng tưởng và thực tế trong khởi nghiệp

Khởi nghiệp là một hành trình gian khổ nhưng rất vinh quang, bạn phải chuẩn bị rất nhiều chi tiết, làm việc rất gian khổ và đôi lúc rất cô đơn... Sau đây là thống kê thực tế những vọng tưởng và thực tế của một quá trình khởi nghiệp.
Khởi nghiệp, làm ông chủ là ước mơ của mọi người. Nhưng rất ít ai biết được bí quyết thành công nằm ở suy nghĩ và thái độ của chính mình khi bắt đầu xây dựng sự nghiệp. khi bắt tay thực hiện ước mơ, người khởi nghiệp có rất nhiều vọng tưởng, đa số là những mong ước sự thành công dễ dàng và hưởng thụ sớm...
Khởi nghiệp là một hành trình gian khổ nhưng rất vinh quang, bạn phải chuẩn bị rất nhiều chi tiết, làm việc rất gian khổ và đôi lúc rất cô đơn...
Sau đây là thống kê thực tế những vọng tưởng và thực tế của một quá trình khởi nghiệp.

Chia sẻ cùng bạn bí quyết vượt qua cái bóng của người tiền nhiệm

“Hãy nhìn nhận từ góc độ “tôi có thể học được gì từ kinh nghiệm đó?”, Hallie Crawford, một chuyên gia hướng nghiệp và là nhà sáng lập công ty hướng nghiệp Create Your Career Path nói. “Rất có thể bạn sẽ tiếp nối được những ý tưởng hay của người tiền nhiệm và tránh phạm phải những sai lầm của người đó”.
Hòa nhập vào một công ty mới với nhiều người đã là khó khăn, nhưng thử thách còn cao hơn nếu bạn lúc nào cũng bị đem so sánh với người tiền nhiệm. Làm thế nào để thoát khỏi cái bóng lớn đó? Sau đây là một vài gợi ý.
Để thành công với nơi làm mới, bạn cần biết thích nghi
Trong lúc bạn đang tìm mọi cách chứng tỏ năng lực của mình với các đồng nghiệp và sếp mới, sẽ thật mệt mỏi khi những người khác lại không mấy chú ý mà thường xuyên so sánh bạn với một người tiền nhiệm giỏi giang đã ra đi.
Nếu không tìm được cách hợp lý để vượt qua, rất có thể công việc của bạn sẽ bị trắc trở vì “bóng ma” của một người bạn chưa từng gặp mặt. Nhưng vấn đề là bạn nên bắt đầu từ đâu?
Đào sâu nghiên cứu
Theo các chuyên gia tư vấn nghề nghiệp, trước hết, ngay từ trước khi chấp nhận vị trí được đề nghị, bạn cần có những tìm hiểu kỹ lưỡng về văn hóa của công ty dự định vào làm. Việc này sẽ giúp bạn có thêm thông tin ngoài những gì được cung cấp trong buổi phỏng vấn.
Ngoài ra, trong khi phỏng vấn bạn cũng nên hỏi xem công việc mình sắp làm đã được những người tiền nhiệm đảm trách ra sao. Nếu tìm hiểu một cách đủ kỹ lưỡng, cả trước trong và sau buổi phỏng vấn, bạn sẽ giảm thiểu được khả năng bị bất ngờ bởi sự so sánh của sếp mới giữa mình với người tiền nhiệm.
“Có hai loại câu hỏi người đi phỏng vấn nên hỏi về một nhân viên cũ đó là: người đó là người thế nào và tại sao vị trí này còn trống”, Andrea Kay, nhà tư vấn nghề nghiệp và tác giả của cuốn sách “Cách để có công việc tiếp theo: Một cái nhìn cận cảnh về điều nhà tuyển dụng thực sự muốn”, cho biết.
“Sau đó hãy lắng nghe thật kỹ những gì nhà tuyển dụng nói với bạn”, Kay nói tiếp. Nếu người phỏng vấn nói tốt về năng lực của người tiền nhiệm của bạn, chuyên gia này đề xuất bạn nên đánh giá xem khả năng của mình trong việc đáp ứng những kỳ vọng đó và vượt qua chúng.
“Hãy nhìn nhận từ góc độ “tôi có thể học được gì từ kinh nghiệm đó?”, Hallie Crawford, một chuyên gia hướng nghiệp và là nhà sáng lập công ty hướng nghiệp Create Your Career Path nói. “Rất có thể bạn sẽ tiếp nối được những ý tưởng hay của người tiền nhiệm và tránh phạm phải những sai lầm của người đó”.
Tránh tạo ra quá nhiều thay đổi
Biết về lịch sử tuyển dụng của vị trí bạn sắp làm và có hiểu biết sâu về văn hóa của doanh nghiệp đôi khi cũng chưa đủ để giúp bạn cảm thấy thoải mái khi nghe những người xung quanh khen ngợi người tiền nhiệm. Nhưng một khi đã vào làm, bạn cần phải đón nhận chúng với sự cầu thị.
“Khi tiếp nhận một vị trí mới, việc hiểu được rằng mọi người không thích thay đổi trong khi chính bạn lại là hiện thân của sự thay đổi là vô cùng quan trọng”, bà Kay nói. “Hãy kiên nhẫn và tìm cách nắm bắt tâm lý của họ”.
Do đó, bạn cũng không nên quá hào hứng trong việc đem đến cùng lúc nhiều điều mới mẻ tại nơi làm việc bởi chúng có thể khiến những người kỳ cựu xung quanh hiểu sai về mình.
“Đừng tới nơi làm việc mới với quá nhiều ý tưởng mới và loại bỏ hoàn toàn những thứ đã được thực hiện”, chuyên gia Kay nói tiếp.
“Hãy tiếp cận mọi thứ một cách nhẹ nhàng, từ tốn. Đừng ngại đặt câu hỏi. Hãy học cách các đồng nghiệp, nhân viên và sếp mới của bạn làm việc. Đi làm sớm và ở lại muộn một chút để biết được mọi việc thực sự diễn ra như thế nào. Và khi muốn tạo ra thay đổi, bạn hãy thực hiện chúng một cách từ từ. Trong vòng 3-6 tháng, bạn sẽ thích nghi được và đó là lúc phù hợp cho những thay đổi lớn”.
Không ngần ngại giao tiếp sẽ giúp bạn bớt cảm thấy mình bị yêu cầu phải vào vai một người tiền nhiệm mà có vẻ như bạn là một người tham gia chủ động vào công việc.
“Hầu hết mọi người đều khởi đầu một công việc mới với ý nghĩ: “Tôi sẽ tìm ra cách giải quyết công việc bằng cách để ý những người xung quanh”. Nhưng tại sao bạn không đặt câu hỏi?”, Kay đề xuất.
“Hãy nói chuyện với sếp của bạn về những kỳ vọng của họ. Hỏi họ xem họ thích giao tiếp theo cách nào và cho họ biết điều gì có thể giúp bạn làm việc hiệu quả nhất”.

Giới thiệu với bạn vấn đề: Xin lỗi sao mới đúng

Nhưng dưới góc độ doanh nghiệp, xin lỗi giúp họ… đỡ tốn rất nhiều tiền. Cách đây gần 2 thập kỷ, tạp chí y học The Lancet đã xuất bản một nghiên cứu chỉ ra rằng trong số những bệnh nhân kiện phòng khám, có 16% bảo rằng chỉ cần bên kia nói xin lỗi là đủ.
Hành động xin lỗi là một cách chuyển giao quyền lực từ người làm lỗi sang cho nạn nhân.
Có rất nhiều thứ diễn ra ở văn phòng khiến bạn cần nói câu xin lỗi. bạn xin lỗi khi lỡ cuộc họp, khi trả lời mail trễ, hay khi sơ ý làm sai điều gì...
Việc xin lỗi xảy ra thường xuyên đến nỗi chúng ta cứ nghĩ đó là một phần của cuộc sống văn phòng và xem nó như một câu cửa miệng. Tại sao bạn không thử thay đổi điều đó bằng một thử nghiệm nho nhỏ?
Janet Paskin, Trợ lý Giám đốc Điều hành của Bloomberg Businessweek, đã thử không nói lời xin lỗi trong 2 tuần liền, kể cả khi nói hay viết email. Thậm chí ngay cả khi cô ấy nghĩ rằng mình sai. “Chỉ sau vài ngày, tôi cảm thấy rất tuyệt”, Janet nói.
Một nghiên cứu năm 2012 của nhóm học giả người Úc đã chỉ ra rằng không xin lỗi mang lại nhiều lợi ích về tâm lý. Cảm giác tuyệt của Janet là một trong số đó.
Dưới góc độ học thuật, hành động xin lỗi là một cách chuyển giao quyền lực từ người làm lỗi sang cho nạn nhân. Bằng cách từ chối xin lỗi, các nhà nghiên cứu cho rằng người phạm lỗi đã giữ được quyền lực và sự kiểm soát.
Không xin lỗi có nghĩa bạn không phải thừa nhận mình đã làm sai và vì thế không phải đi sửa sai. Nó cũng tương tự tình huống bà mẹ dạy đứa con 8 tuổi: “Nếu con thực sự xin lỗi vì đã ném cái mũ đi, con đã không lặp lại cái lỗi đó lần thứ 3 như thế”.
Nhìn ở góc độ này, như nghiên cứu trên đã chỉ ra, việc từ chối xin lỗi còn mang lại cảm giác lòng tự trọng cao hơn so với khi bạn nói câu xin lỗi. Đó là lý do khiến cho một số người không muốn mở miệng xin lỗi.
Nhưng dưới góc độ doanh nghiệp, xin lỗi giúp họ… đỡ tốn rất nhiều tiền. Cách đây gần 2 thập kỷ, tạp chí y học The Lancet đã xuất bản một nghiên cứu chỉ ra rằng trong số những bệnh nhân kiện phòng khám, có 16% bảo rằng chỉ cần bên kia nói xin lỗi là đủ.
Năm 2002, Đại học Trung tâm Y học Michigan đã áp dụng chính sách sẵn sàng tiết lộ mọi sai phạm trong chẩn đoán, khám chữa bệnh, trong đó có áp dụng cả chiêu xin lỗi. Kể từ đó, tỉ lệ kiện tụng đã giảm tới 65%.
Các CEO nhận trách nhiệm về kết quả yếu kém đã làm cho cổ phiếu công ty họ tăng từ 14-19% trong năm tiếp theo
Trong một nghiên cứu vào năm 2004 về các Tổng Giám đốc (CEO) và diễn biến giá cổ phiếu, các nhà nghiên cứu của Đại học Michigan và Stanford khám phá ra rằng các CEO nhận trách nhiệm về kết quả yếu kém đã làm cho cổ phiếu công ty họ tăng từ 14-19% trong năm tiếp theo.
Hãy trở lại với trường hợp của Janet. Sau 2 tuần thực hiện chính sách “không xin lỗi”, Janet cho biết cô nhận thấy càng nói xin lỗi nhiều bao nhiêu thì lời xin lỗi càng ít có ý nghĩa, thậm chí quá sáo rỗng.
Theo cô, đối với những lỗi nhỏ, nhiều khi việc mở miệng xin lỗi không những không nhận được sự cảm kích từ phía người kia mà còn khiến họ cảm thấy phiền lòng. Có thể phía kia bực bội và nghĩ: “Có vậy cũng xin lỗi”.
Đó là sự thật. Nhiều khi chẳng ai để ý là bạn đã viết mail trả lời trễ 1-2 tiếng hay bạn đã bỏ lỡ một buổi họp. Nếu bạn là người cần có mặt thì chắc chắn họ sẽ cho bạn biết.
Theo Janet, trong suốt 2 tuần thử nghiệm, chỉ có một người duy nhất yêu cầu cô xin lỗi. Nhưng thú vị ở chỗ, đó là cho chuyện cô không nghĩ mình đã làm sai.
Rõ ràng có lỗi hay không cũng khác ở cảm nhận của mỗi người. Không nên đưa ra những lời xin lỗi vô nghĩa. Nhưng chắc chắn phải xin lỗi khi bạn cho đó là điều cần làm.

Cùng khám phá về học cách đầu tư của người giàu

Mặc dù mỗi gia đình có khoảng 6 chuyên gia tư vấn đầu tư nhưng họ cũng mắc nhiều sai lầm. Hồi đầu năm 2001, các gia đình giàu có chỉ dành 0,01% tổng tài sản vào các hình thức đầu tư phức tạp như chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp (MBS). Khi đó, MBS là loại hình đầu tư khá thành công và nhiều người giàu có đã lao vào lĩnh vực này.
Những người giàu rất khác với số đông chúng ta, bởi thế nên họ giàu. Nhưng sự khác biệt ấy cũng không phải quá lớn.
Mỗi nhà đầu tư, dù giàu có hay không, cũng có thể học hỏi được nhiều điều từ những thành công và cả thất bại của nhóm người thiểu số này
Một nghiên cứu mới của tờ WSJ đã đưa ra một đánh giá toàn diện về danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư của hàng trăm gia đình giàu có nhất nước Mỹ. Mỗi nhà đầu tư, dù giàu có hay không, cũng có thể học hỏi được nhiều điều từ những thành công và cả thất bại của nhóm người thiểu số này.
Đây là những gia đình có tài sản trung bình khoảng 90 triệu USD. Họ đã đầu tư một cách thông minh trong phần lớn trường hợp, trải rộng việc đầu tư ra nhiều lĩnh vực và hạn chế số thuế phải đóng ở mức tối thiểu.
Tuy nhiên, họ cũng có lúc mắc những sai lầm cơ bản. Cách tiếp cận của họ không phải lúc nào cũng lý tưởng.
Ba nhà kinh tế bao gồm Enrichetta Ravina của Trường Kinh doanh Columbia, Luis Viceira của Trường Kinh doanh Harvard và Ingo Walter của Trường kinh doanh Stern thuộc Đại học New York đã phân tích cổ phần và giao dịch của hơn 260 triệu gia đình siêu giàu có từ năm 2000 đến 2009.
Các nhà đầu tư giàu có đã thành công thế nào?
Đầu tiên, họ có những lợi thế của người giàu: Họ có thể tiếp cận những khoản đầu tư đặc biệt, triển vọng, và có đủ tiền để theo những khoản đầu tư dài hạn. Họ không thay đổi danh mục đầu tư quá nhiều và hiếm khi mua đi bán lại cổ phần.
Mặc dù mỗi gia đình có khoảng 6 chuyên gia tư vấn đầu tư nhưng họ cũng mắc nhiều sai lầm. Hồi đầu năm 2001, các gia đình giàu có chỉ dành 0,01% tổng tài sản vào các hình thức đầu tư phức tạp như chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp (MBS). Khi đó, MBS là loại hình đầu tư khá thành công và nhiều người giàu có đã lao vào lĩnh vực này.
Đến đầu năm 2007, loại hình đầu tư MBS chiếm hơn 2,3% tổng tài sản của người giàu. Khi đó, nhiều loại hình đầu tư MBS đã trở nên rất rủi ro. Chỉ số CMBS 7, đo lường diễn biến thị trường này đã mất 36% trong năm 2008 và tất nhiên những người giàu đã chịu quả đắng.
Một danh mục đầu tư điển hình của họ thường gồm 120 cổ phiếu cá nhân, hơn 20 chứng chỉ quỹ đầu tư tín thác, quỹ đầu tư chỉ số (ETF) và những thứ tương tự. Việc duy trì một danh mục đa dạng như vậy khiến họ dễ dàng bù đắp lãi và lỗ, nhằm giảm thiểu mức thuế phải đóng.
Tuy nhiên, việc sở hữu nhiều loại chứng khoán cũng khiến chi phí của họ tăng lên, xóa đi một phần những lợi thế thông tin mà họ có nhờ mạng lưới xã hội và kinh doanh.
“Những người giàu giỏi xoay sở trong tình huống dễ dàng, nhưng khi khó khăn họ lại không xuất sắc. Họ cũng là con người, như tất cả chúng ta. Trong cuộc khủng hoảng tài chính, phần lớn bọn họ cũng thua lỗ", nhà kinh tế Enrichetta Ravina cho biết.
Tổng danh mục đầu tư chứng khoán của những người giàu đã giảm từ 8 tỷ USD hồi giữa năm 2008 xuống chỉ còn 3 tỷ USD vào tháng 3/2009.
Vì thế, cũng như những người giàu, bạn cũng có những lợi thế so sánh ở vị trí nhà đầu tư. Phần lớn các cá nhân không thể và không dám đi ngược lại xu thế chung của thị trường, lèo lái thị trường như những nhân vật "máu mặt".
Theo Ravina, chúng ta có thể làm tốt những gì mà nhà đầu tư lớn không thể: kiên nhẫn và bình tĩnh; giao dịch nhanh chóng, gọn nhẹ mà không gây sự chú ý ; tập trung vào những công ty hiếm, ít người biết ; dễ xoay sở trong tình huống khó khăn hay khi thị trường đổi chiều.

Chia sẻ với bạn về một góc nhìn khác về cuộc chiến thương hiệu

Mỹ Hảo là minh chứng. Dù chỉ là công ty quy mô nhỏ, nhưng ngay từ năm 1998, ông Lương Vạn Vinh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty nhất quyết nói không với đề nghị mua lại toàn bộ thương hiệu từ Unilever (lúc đó được định giá 10 triệu USD). Nghe đâu ngày nay, giá trị thương hiệu này đã là hơn 40 triệu USD.
Nhạc sỹ Trần Long Ẩn hẳn sẽ rất ngạc nhiên nếu ông biết ca từ trong nhạc phẩm “Một đời người một rừng cây” của mình: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai” lại ứng với triết lý kinh doanh của nhiều doanh nghiệp ngày nay.
Báo chọn phần dễ về mình
Báo chí dạo này nói nhiều đến sự biến mất của các thương hiệu Việt Nam ngay tại thị trường nội địa. Thực ra, cuộc chiến khốc liệt trên thương trường đã diễn ra từ nhiều năm trước với sự “khai hỏa” của “đám thợ săn” đa quốc gia.
Khi Tập đoàn Unilever (Hà Lan) đặt chân vào Việt Nam năm 1995, họ đã đưa thương hiệu kem đánh răng P/S của Việt Nam vào tầm ngắm.
Những năm 1990, P/S và Dạ Lan là hai tên tuổi nổi tiếng và đáng tự hào nhất do các doanh nhân Việt “mang nặng đẻ đau” sinh ra. Lúc đầu, Unilever chơi bài thành lập liên doanh với P/S để cùng hợp tác khai thác nhãn hiệu này (chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu).
Khi nắm được con mồi, kẻ đi săn không cần nấp trong lùm cây nữa mà công khai ý đồ thôn tính bằng chiêu bài hiểm: làm cho liên doanh lỗ đến nỗi đối tác nội chịu không nổi và phải tự rút. “Cây gậy” mà họ sử dụng là đề nghị liên doanh thay vỏ kem đánh răng P/S bằng nhôm trước đó sang nguyên liệu nhựa.
Phía Công ty Hóa phẩm P/S biết rõ mưu đồ này, song không làm gì được vì không thể “chạy đua vũ trang”. Kết cục, Unilever sở hữu nhãn hiệu P/S của Việt Nam.
Tương tự, năm 1995 Công ty Colgate Palmolive (Mỹ) ngỏ ý muốn hợp tác liên doanh với Công ty Sơn Hải – chủ nhãn hiệu kem đánh răng Dạ Lan. Vẫn bài cũ, sau khi các thủ tục chuyển nhượng và thành lập liên doanh hoàn thành, việc sản xuất kinh doanh của Dạ Lan dần chìm sâu vào thua lỗ.
Năm 1998, Tổng Giám đốc Sơn Hải là ông Trịnh Thành Nhơn dù đau đớn, nhưng cũng phải ngậm ngùi bán nốt 30% cổ phần trong liên doanh cho đối tác Mỹ do không trụ nổi với tình trạng liên doanh thua lỗ triền miên.
Sẽ có người lật ngược vấn đề, lợi nhuận là mục tiêu lớn nhất của những tập đoàn này. Việc họ đi mua lại đối tác Việt Nam thông qua đàm phán, thỏa thuận chẳng có gì xấu. 

Lập luận như vậy chẳng khác nào kiểu hổ đi săn nai là tốt cho cả nai lẫn hổ! Kế sách đi mua công ty bản địa thật ra không mới với công ty lớn trên thế giới. Đó là con đường ngắn nhất, dễ đi nhất để họ thâm nhập một thị trường mới đầy hấp dẫn như Việt Nam. Ai chẳng thích chọn việc dễ hơn việc khó!
Nếu công ty nước ngoài đã vậy, có không ít công ty Việt Nam – đối tượng bị săn đuổi lại tình nguyện… trở thành con mồi. Vì sao? Đơn giản, đó cũng là con đường ngắn nhất, dễ đi nhất để các ông chủ doanh nghiệp tư nhân thu về một khoản tiền mặt lớn, danh tiếng lan rộng.
Gian khổ nhường người khác!
Khi thương hiệu cà phê số 1 thế giới Starbucks đổ bộ vào Việt Nam, rất nhiều người háo hức đón chờ phản ứng khác nhau của các thương hiệu lớn nhất nước. Vinacafé Biên Hòa nằm trong số những công ty được mong đợi hơn cả. Bởi lẽ, đây là thương hiệu mạnh nhất nhì thị trường.
Chỉ tính năm 2012, Vinacafé Biên Hòa lọt “Top 50 Công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam 2012”, “Top 10 Thương hiệu mạnh Việt Nam”, “Top 10 Thương hiệu Việt uy tín”, nhận Giải Bạc – Giải thưởng Chất lượng Quốc gia, Hàng Việt Nam Chất lượng cao và Thương hiệu Quốc gia.
Vậy nhưng chưa thấy có phát ngôn hay hành động đúng tầm “Thương hiệu quốc gia” nào từ Vinacafé Biên Hòa trước sự xuất hiện của thương hiệu toàn cầu Starbucks.
Đã đành mỗi doanh nghiệp có một chiến lược marketing riêng, nhất là Starbucks không phải đối thủ trực tiếp của Vinacafé Biên Hòa, song người tiêu dùng muốn biết bản lĩnh của công ty đứng đầu thị trường thế nào trước thử thách lớn.
Đó không chỉ là chuyện kinh doanh, phải coi đó là tinh thần dân tộc. Nếu không có tinh thần dân tộc tuyệt vời, người Hàn Quốc không bao giờ có thương hiệu quốc gia Samsung của họ.
Người Nhật biết cúi đầu lịch thiệp trong giao tiếp, nhưng khi chạm vào tinh thần dân tộc họ chẳng bao giờ sợ hãi trước bất cứ tập đoàn đa quốc gia nào, mà luôn ngẩng cao đầu. Nhờ tính tự tôn dân tộc ấy mới có Sony, Honda, Toyota ngày nay.
Hay có lẽ Vinacafé… sướng quá không quen được khổ? Sướng bởi vì đùng một cái, đang lo mất thị phần do sự cạnh tranh từ các đối thủ khác thì họ được một tập đoàn thực phẩm lớn mua lại. Ngoài dòng tiền, Vinacafé Biên Hòa nghiễm nhiên tăng kênh phân phối từ 45.000 điểm lên 180.000 điểm trên cả nước nhờ hệ thống sẵn có của bên mua lại.
Nhưng họ cũng sẽ khổ. Khổ bởi vì tính sáng tạo, khả năng ứng biến trong kinh doanh từ giờ hoàn toàn lệ thuộc vào tập đoàn mẹ chưa có kinh nghiệm về cà phê.
Còn nữa, cà phê không phải sản phẩm tiêu dùng nhanh thông thường như nước mắm hay mì ăn liền. Nó có tính văn hóa rất cao nên chưa chắc dễ bán hơn trong hệ thống phân phối mới.
Quay lại câu chuyện bảo vệ thương hiệu. Không phải tất cả doanh nghiệp đều an phận.
Mỹ Hảo là minh chứng. Dù chỉ là công ty quy mô nhỏ, nhưng ngay từ năm 1998, ông Lương Vạn Vinh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty nhất quyết nói không với đề nghị mua lại toàn bộ thương hiệu từ Unilever (lúc đó được định giá 10 triệu USD). Nghe đâu ngày nay, giá trị thương hiệu này đã là hơn 40 triệu USD.
Tình yêu thương hiệu không chỉ giúp ông Vinh bảo vệ thành công “đứa con” rứt ruột đẻ ra trước bao lời chèo kéo của nước ngoài mà còn nuôi nấng nó lớn khôn, cứng cáp. Đấy là hành trình gian khổ, nhưng rất đáng tự hào.
Năm 2003, Công ty cổ phần Tập đoàn Trung Nguyên cũng quyết định chọn một việc không nhẹ nhàng lắm, thậm chí rất mạo hiểm. Họ tổ chức một cuộc “thử mù” khẩu vị sản phẩm cà phê (blind taste test) tại Dinh Thống Nhất (TP.HCM) thu hút hơn 35.000 người tham gia.
Công ty mời người tiêu dùng uống thử 2 ly cà phê hòa tan, một của G7 (thương hiệu vừa ra mắt lúc đó của công ty), một của Nescafe với điều kiện người thử không biết nhãn hiệu trước khi uống và so sánh xem họ yêu thích sản phẩm nào hơn. Kết quả của cuộc “thử mù” là có 89% người tiêu dùng chọn G7 và 11% chọn Nescafe.
Trước khi có G7 và sự kiện trên, thị trường cà phê hòa tan đóng gói nội địa do Nescafe làm chủ với 55,95% thị phần. Vinacafe chiếm 38,45 và 5,6% là của các thương hiệu cà phê khác.
Đến cuối năm 2004, bức tranh ngành cà phê hòa tan được vẽ lại, Nescafe chỉ còn 44,05%, Vinacafe còn 28,95%, G7 chiếm 21,8% và 5,2% cho các thương hiệu khác. G7 thành công nhờ có sản phẩm tốt, chất lượng và hương vị riêng biệt cộng với khâu phân phối mạnh và chiến dịch tiếp thị chuyên nghiệp.
Đúng như ca từ trong nhạc phẩm của nhạc sĩ Trần Long Ẩn, gật đầu với đối thủ để tồn tại dễ hơn rất nhiều so với cái lắc đầu ẩn chứa tinh thần tự tôn, sứ mệnh bảo vệ thương hiệu của người Việt Nam. Cuộc đời này nếu ai cũng dành gian khổ cho người khác thì còn gì để nói?